Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận
Bài làm
Huy Cận được biết đến với những hồn thơ sầu nhân thế và có cảm giác thiên nhiên như bao la. Qua đó nhìn như thấy được đó cũng chính là qua thiên nhiên rộng lớn đó thì con người như cảm thấy mình thật vô dịnh và nhỏ bé. Và nhắc đến Huy Cận người ta không thể nào quên tác phẩm “Tràng giang” của ông được.
“Tràng giang” là một từ Hán để dùng chỉ một con sông dài, nhưng Huy Cận lại dường như thật tinh tế và cũng thật ý nhị biết bao nhiêu khi muốn cảm nhận đó là một dòng sông rộng. Bên cạnh đó ta không thể nào có thể quên được ý nghĩ của lời đề từ cũng thật hay và đặc sắc đó chính là câu:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Dễ nhận thấy được chiều cao của bức tranh là khoảng cách giữa trời rộng với sông dài, làm nên đầy đủ, trọn vẹn ba chiều của không gian. Thực sự chính điều ấy rất sớm giới thiệu với người đọc về Huy Cận, ông chính là một nhà thơ của cảm hứng không gian. Ngay đoạn mở đầu như đã mở ra một không gian sóng nước;
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Những con sóng như gợn trên dải “tràng giang “ của Huy Cận ở đây chúng ta không phải là sóng xô, hay đó là những sóng vỗ, mà nó như cũng thật là nhẹ nhàng. Thế rồi ta như cảm nhận thấy được ở đó chính là có một chuyển động nhẹ nhàng để gợi ra hình ảnh của một dòng tràng giang tĩnh lặng. Nhà thơ Huy Cận dường như cũng đã tìm ra cái tĩnh trong cái tưởng như rất động. Đồng thời nó cũng đã thể hiện một hồn thơ hay thiên về cái tĩnh. Có lẽ rằng, ta như thấy được chính những con sóng gợn trong con mắt đầy xúc động của thi nhân dường như cứ lan toả đến vô cùng. Có lẽ chính vì thế mà người đọc như đã cảm nhận thấy được chính ngay từ câu thơ đầu tiên, thì lúc này đây nhà thơ Huy Cận dường như cũng đã chứng tỏ mình đi theo một phong cách thơ khác nhiều lắm so với phong cách thơ cổ điển. Phong cách này như thể hiện đó là sự xuất hiện chữ “buồn” ngay ở đầu bài – “buồn điệp điệp”. Thật dễ có thể nhận thấy được chính những nỗi buồn mang hình ảnh của sóng gợn, và đồng thời như cũng đã mượn hình ảnh của sóng để hiện ra trước con người.
Thực sự ta như thấy được chính trên bức tranh sông nước ấy đã hiện lên hình ảnh một con thuyền, hay đó cũng chính là một con thuyền không chèo “xuôi mái nước”. Thực sự đây cũng chính là hình ảnh tĩnh trên một dòng sông tĩnh. Có thể nhận thấy được rằng, chính mái chèo buông xuôi dọc bên thân thuyền, và ta dường như cũng đã thấy được khi ta để lại hai vệt nước mà nhà thơ gọi là “song song”. Thực sự chính với hai chữ này đã hoà ứng với hai chữ “điệp điệp” như cũng đã mang được một dáng vẻ mơ hồ ngay ở cuối câu thứ nhất như để gợi thêm ra cảm giác về một nỗi buồn vô tận. Bức tranh như thật rộng mở.
Nhưng đến câu thơ thứ ba thì lại khác:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Có thể nhận thấy được rằng chính hình ảnh nước và thuyền quay trở lại, nhưng không phải thuyền trôi trên dòng nước mà ta như hiểu được rằng “thuyền về, nước lại”. Thực sự ta như thấy được cứ mỗi sự vật đi kèm với một động từ, tạo nên cảm giác về sự chuyển động trái chiều. Trong mỗi chúng ta dường như cứ lại có được cảm tưởng rằng thuyền về, con nước lại và một khoảng trống sẽ được mở ra. Và có thể thấy được khoảng trống ở đây mở ra đó lại chính là một nỗi buồn, một nỗi sầu như vô dịnh. Tuy nhiên, thực sự đọc hết bài thơ ta như thấy được không có câu thơ nào trong khổ này lại khiến Huy Cận phải trăn trở nhiều hơn, tâm đắc nhiều hơn là câu thơ thứ tư đó chính là câu thơ:
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Độc giả dường như cũng đã thấy được những điều rất lạ ở câu thơ này. Đó chính là việc Huy Cận đã tinh tế dùng từ “củi” – một từ ngữ dung dị nhưng lại đưa vào trong thơ. Huy Cận cũng đã dùng “củi” ở đầu câu và phải là phép đảo từ thì nhà thơ Huy Cận cũng mới có thể nói ra tận cùng một quan niệm, một triết lý nhân sinh. Thế rồi từ “một” dường như đã kết hợp cùng từ “củi” như càng làm tôn lên cái sự lạc lõng vô định biết bao nhiêu.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Thực tế người đọc đã thấy được “Tràng giang” dường như giờ đây đã có thêm hình ảnh những chiếc “cồn”. Đồng thời đó cũng chính là những nhịp sóng của những người dân. Những hiện ra ở đây lại là một cảnh sông nước bao la làm cho tất cả cảnh vật dường như cũng bé lại, như thấy cô đơn và buồn tủi hơn rất nhiều. Người đọc dường như cũng đã thấy được một ngọn gió thổi đìu hiu ở nơi đã từng là bãi chiến trường đẫm máu. Chính những mối liên tưởng ấy làm ngọn gió trên sông của nhà thơ lại càng thêm buồn bã, hắt hiu. Cho đến câu thơ thứ ba đã vẳng lên âm thanh của sự sống, thật đáng buồn vì âm thanh ấy cũng nhỏ nhoi, yếu ớt, cô quạnh biết bao nhiêu.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Có lẽ ta như thấy được chính cảm giác ấy dường như thấm vào từng chữ một trong câu. Câu thơ dường như đã làm cho ta thêm gợi nhớ đến một “phiên chợ chiều” đã “vãn” của một “làng xa”. Tất cả như bao trùm trong một sự yên lặng. Phải đến câu thơ thứ ba thì không gian cũng lại được mở ra theo một chiều khác, đó chính là chiều cao qua hình ảnh của nắng và bầu trời:
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.
Thông qua hai hình ảnh ấy cũng được đặt trong những chuyển động trái chiều – “lên” và “xuống”. Có lẽ rằng, chính trong cảm giác về một sự chia rẽ đó, không có một chút gì liền mạch với nhau. Đó chính là cảnh như nắng xuống và trời lên, để lại một khoảng trống thăm thẳm mở ra. Tất cả dường như cũng đã làm nên cảm giác mà Huy Cận dường như cũng đã diễn tả bằng một sự kết hợp từ độc đáo – “ sâu chót vót ”. Thật độc đáo biết bao nhiêu ta như thấy được cụm từ này tạo cảm giác thăm thẳm về bầu trời và mặt nước. Không chỉ thế thôi đâu, ta dường như cũng đã thấy được cũng phải có chữ “sâu” để không gian được nhuộm trong gam màu, gam cảm xúc buồn, trầm lắng.
Cho đếnn khổ thứ hai của bài thơ được khép lại trong một câu thơ gần nhất với câu đề từ. Dễ nhận thấy được rằng khi ở đây lại xuất hiện hình ảnh của “sông dài, trời rộng”.
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Thực sự với không gian như mênh mông quá thì lại cho thấy được từ “bến cô liêu” như đang giăng mắc. Có lẽ rằng chính sự bao lao của thiên nhiên thì lại làm ta như thêm nhỏ bé và thật vô định không biết đi về đâu. Câu thơ lại có biến chuyển khi xuống đến khổ sau:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Ta như thấy nỗi cô đơn như càng trở nên vô định hơn với hình ảnh những cánh bèo như đang trong mênh mang sóng nước.
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Với khổ thơ trên người đọc dường như thấy được từ “không đò” như cũng đã được hiệp âm với chữ “mênh mông” ở trước đó. Thế rồi cũng chẳng cần “cầu gợi chút niềm thân mật” lại như chất chứa được một sự khắc khoải trước không gian kia.
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Ta như cũng có cảm giác về những câu như “không” gặp lại ở “lặng lẽ”, không hình, không cả tiếng. Có lẽ chính những câu thơ gợi cho người đọc cảm nhận về dòng chảy qua hết bờ xanh lại đến bãi vàng, và ta cũng nhưng tuyệt đối âm thầm.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chim nghiêng cánh nhỏ óng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Phải khẳng định được rằng đây là khổ thơ duy nhất mà mỗi câu thơ đều gợi ra liên tưởng về một câu thơ Đường. Có lẽ cũng không có khổ thơ nào trong “Tràng giang” lại vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh như được hiển hiện một cách dễ dàng nhất. Ta dường như cũng đã thấy được chính với câu thơ thứ nhất đem đến cho ta cảm giác của một thiên nhiên vừa quen thuộc lại vừa lớn lao, kì vĩ.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Đây là một cách sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Huy Cận, chỉ với 7 chưa ngắn gọn mà cũng đã như mở ra một không gian chiều cao như thật rõ ràng biết bao nhiêu. Thực sự đây là một không gian hiếm có trong thơ từ trước đến nay. Tiếp đến cũng nhận ra được cánh chim lúc này đây dường như cũng trở lên nhỏ bé trước không gian trời mênh mông.
Ta như thấy được cánh chim như phải nghiêng đi trước bóng chiều như đổ xuống. Thực sự mà nói đây chính là một hình ảnh thật đẹp trong thơ cỏ điển, nhưng dưới con mắt của người thi sĩ tài năng lại sử dụng từ “nghiêng” như cũng thật giàu sức gợi hình đẹp mênh mang biết bao nhiêu.
“Lòng quê dợn dợn vời con nước.
Không khối hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Chữ “vời” ở đây ta dường như cũng lại được hiểu theo nghĩa là trông mãi về phía xa. Có lẽ chính vì trong câu thơ đang nhìn mãi ra xa, tấm lòng cũng cứ lan theo mặt nước ra xa. Câu thơ như chất chứa được những tình cảm như thật là nhớ quê hương da diết. Mượn một hình ảnh đã quá quen thuộc trong thơ xưa để nói về nỗi nhớ nhà. Khi xưa trong thơ của Thôi Hiệu có câu:
“Yên giang ba thượng sử nhân sầu”
Tức là trên sông khối sóng cho buồn long ai? Thì đến với Huy Cận chẳng cần phải khói sóng mà mới nhớ quê hương. Mà nỗi nhớ như chất chứa, như đong đầy trong tâm khảm của con người ta rồi.
“Tràng giang” là một áng thi ca đã như chạm vào trái tim của những người yêu thơ và làm nên tên tuổi của nhà thơ Huy Cận. Thực sự trước không gian vô định kia con người như thật nhỏ bé và điều này cũng thật đúng với phong cách thơ của ông luôn mang gợi những tình cảm tràn đầy. Bài thơ như đạt được trọn vẹn cả nội dung cảm xúc lẫn hình thức văn chương.
Minh Nguyệt
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Phân tích tác phẩm Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam
Đề bài: Em hãy phân tích tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam Bài [...]
Th12
Phân tích tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
Đề bài: Em hãy phân tích tác phẩm “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao [...]
Th12
Phân tích bài thơ Chiều Tối của Hồ Chí Minh
Đề bài: Em hãy Phân tích bài thơ “Chiều Tối” của Hồ Chí Minh Bài [...]
Th12
Phân tích bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ “Đây Thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc [...]
Th12
Phân tích bài thơ Vội Vàng
Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ “Vội Vàng” của Xuân Diệu Bài làm [...]
Th12
Phân tích bài thơ Tự Tình I
Đề bài : Em hãy phân tích bài thơ “Tự Tình I” của Hồ Xuân [...]
Th12