Phân tích nhân vật Mỵ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài – Bài làm 1
Tô Hoài là cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam với phong cách viết gần gũi với đời sống của con người. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Tây Bắc” là câu chuyện giàu giá trị nhân văn khẳng định sức sống phi thường của con người khi bị áp bức, bóc lột. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mỵ có sức ám ảnh đối với người đọc.
Tô Hoài đã dẫn dụ người đọc vào câu chuyện bằng một lời giới thiệu nhẹ nhàng nhưng đầy ý vị “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Tô Hoài đã rất khéo ló khi gợi tả hình ảnh của Mỵ qua những cử chỉ và nét mặt đặc trưng đó. Một sự đối lập đến đau long giữa căn nhà rộng lớn của thống lý và sự lầm lũi, côi cút của người con gái bí hiểm đó.
Một cô gái chịu sự dày vò về tinh thần, nhưng dường như lại có sức mạnh, nghị lực phi thường đang được nhen nhóm trong long của Mỵ.
Mỵ vốn là cô gái xinh đẹp, nết na, được nhiều trai làng theo đuổi. Những tưởng rằng cuộc sống của Mỵ sẽ sung sướng, hạnh phúc nhưng vì món nợ mà mẹ Mỵ với nhà thống lý đã khiến cho cuộc đời cô rơi vào bế tắc và tuyệt vọng như bây giờ. Thương cha, thương cho than phận hẩm hiu của mình mà Mỵ đành lặng lẽ về làm dâu nhà thống lý trong tủi nhục và đau khổ.
Tô Hoài đã diễn tả cuộc sống như chết rồi của Mỵ tại nhà thống lý, một cuộc sống cơ cực, không khác gì than trâu ngựa. Phận là con dâu nhưng Mỵ lại bị dối xử không khác gì nô lệ, thậm chí than trâu ngựa còn có lúc được nghỉ ngơi “con trâu con ngựa làm còn có lúc, đem nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở nhà này vùi đầu vào công việc cả ngày lẫn đêm”. Bị đày đọa về thể xác và tinh thần khiến cho Mỵ ngày càng rơi vào cảnh bế tắc, tuyêt vọng.
Bằng sự quan sát tỉ mỉ và nhạy cảm, Tô Hoài đã khắc họa trạng trạng thái lầm lũi, một kẻ sống lặng câm y hệt “một con rùa trong xó của, căn phòng chỉ có một lỗ sáng to bằng bàn tay”. Căn phòng đó giống như địa ngục trần gian, giam giữ cuộc đời Mỵ, khiến cho cuộc đời một người con gái đang tuổi thanh xuân phải chon vùi nơi đây.Thống lý Pá Tra là hiện than của xã hội phong kiến nhiều hà khắc, hủ tục, đẩy con người vào bước đường cùng không thương tiếc. Những người nông dân thấp cổ bé họng không biết kêu than ai, chỉ biết chấp nhận và chịu đựng.
Đã có lúc Mỵ muốn tìm đến cái chết để giải thoát bản than mình nhưng nghĩ đến cảnh người cha già, thương cha nên cô đành chấp nhận cuộc sống hiện thực.
Niềm khát khao sống, khát khao yêu trong con người Mỵ dường như đã không còn. Mỵ chấp nhận sống, chấp nhận sự tồn tại như đã chết.Bên trong Mỵ vẫn còn tiềm ẩn sức sống rất mãnh liệt, chỉ chờ thời cơ thì sức sống sẽ bùng nổ.
Tô Hoài đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp của Hồng Ngài khiến cho chính người đọc cũng cảm thấy thích thú. Nó dường như là đòn bẩy để khơi gợi lên niềm tin và nghị lực trong cuộc sống. Mỵ đã lén uống rượu, trong cơn say, Mỵ đã ý thức được bản than mình muốn gì “Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhieu người có chồng ngày tết vẫn đi chơi. Huống chi Mỵ và A Sư, không có long với nhau mà vẫn ở với nhau”. Lúc ấy Mỵ đã ý thức được những khát khao trong long mình cháy bỏng như thế nào và tiếng sáo ngoài kia là một trong những động lực khơi gợi lại những kỉ niệm êm đẹp một thời Mỵ từng có.
Nhưng chính hành động này của Mỵ đã khiến cho A Sử biết được, hắn trói Mỵ vào cột và bỏ đó đi chơi. Mỵ vẫn đang lâng lâng trong hơi men rượu, và ký ức của cô lại ùa về dư dội. Tuy nhiên thực tại đã kéo Mỵ lại với những gì mà Mỵ đang đối mặt: đau đớn và tủi nhục, khắp mình mẩy đau nhức.
Tuy nhiên có thể nói cảnh tượng Mỵ cởi trói cho A phủ mới là cảnh tượng khắc họa cực kỳ sắc nét và chân thực tâm trạng, khát khao của Mỵ Mỵ đã vùng lên đấu tranh, vùng lên đòi hạnh phúc của chính mình. Giọt nước mắt của A Phủ của đêm hôm ấy đã đánh thức tình cảm, sự bùng cháy trong trái tim của Mỵ “Đêm hôm ấy Mỵ khóc, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xạm đen”. Giọt nước mắt ấy đã khiến thay đổi cuộc đời Mỵ về sau.
Chi tiết Mỵ cởi trói cho A phủ và quyết định chạy trốn theo A Phủ là một sự bùng nổ về tinh thần. Sự đè nén bấy lâu nay trong long Mỵ đã được bứt phá và giải tỏa ra. Mỵ đã có thể tự lựa chọn con đường đi cho chính mình, Mỵ tự đáu tranh, Mỵ không thể mãi chịu cảnh bị người ta hành hạ, đè nén. Đây chính là sự bứt phá trong con người của Mỵ. Đây chính là sự thành công của Tô Hoài khi khắc họa hình tượng nhân vật này.
“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Đăc biệt hình tượng nhân vật Mỵ để lại trong long người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc nhất,
Phân tích nhân vật Mỵ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài – Bài làm 2
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại VN với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục .Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông .Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể . Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi . Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị , qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc.
Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất- giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955.Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952.
Vợ chồng A Phủ mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịc lý và cuốn hút độc giả :
“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” .
Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa ; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng .
Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp . Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi , uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo” . Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương . Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thah hò hẹn của người yêu .
Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh . Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí .
Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh nghĩa là con dâu , nhưng thực chất chính là tôi tớ . Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm” .
Song nhà văn còn khắc hoạ đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị . Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm , “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” . Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng . Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô . Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống . Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống .
Mị đã từng muốn chết mà không được chết , vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha . Nhưng dến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi , kéo dài mãi sự tồn taịi vật vờ . Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn . Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống . Còn khi đã không thiết chết , nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước… cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi.
Sức sống của Mị dường như mất đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia dang còn một con người . Khát vọng hnạh phúc có thể bị vùi lấp , bị lãng quyên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan . Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu.
Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ . Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các lòai hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát , “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ . Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng , người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người: “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi . Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.
Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ.
Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc âý, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng , ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi .
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần , cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi “.Rồi cái gì đến đã đến. A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi , bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân.
Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được . Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy . Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.
Nhưng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A Phủ . Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi . Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí . Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng : bị trói đứng . Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị . Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt:“Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình.
Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình : “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết ”. Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.
Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị .
Vợ chồng A Phủ qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời , số phận , tính cách Mị đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến , thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi . Đồng thời nó cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc , sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động . Đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ . Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của Vợ chồng A Phủ .
Phân tích nhân vật Mỵ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài – Bài làm 3
Nhà văn Tô Hoài là một người có vốn hiểu biết khá phong phú và sâu rộng về những vùng miền trên khắp Tổ Quốc nhưng có lẽ hiểu biết nhất vẫn là vùng đất Tây Bắc, không chỉ khắc nghiệt về khí hậu thời tiết địa hình mà con người ở đây cũng phải chịu những đau thương của xã hội hủ tục lạc hậu thời bấy giờ. Với văn phong hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh sinh động với biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc Tô Hoài đã mang đến cho chúng ta một hình tượng nhân vật người phụ nữ Tây Bắc điển hình. Điển hình cho số phận, cho nỗi khổ hạnh phúc lứa đôi và những giá trị hiện thực và nhân đạo qua hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ. Có thể nói tác phẩm này đã mang đến những cảm xúc cho chúng ta khi thấu hiểu số phận người con gái tên Mị.
Mị xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện với một hình ảnh lầm lũi, buồn tủi. bằng giọng kể thoang thoảng hương vị của ca dao cổ tích nhân vật Mị hiện ra báo trước một câu chuyện buồn sắp tới: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. đó chính là Mị nhưng tại sao cô lại buồn đến thế. Vả lại khi người ta hỏi ra mới biết cô chính là con dâu của nhà thống lý Pá Tra giàu lắm mà tại sao lại phải lầm lũi suốt ngày chỉ một công việc như vậy. những công việc ấy lặp đi lặp lại hằng ngày và Mị lúc nào cũng trông tư thế như vậy. Mị sống âm thầm lẽ loi lặng lẽ sống gắn vào với những vật vô tri vô giác. Như vậy có thể thấy hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với những gì cô đang phải chịu tưởng rằng là con dâu nhà thống lý một vùng thì là sung sướng nhưng không điều đó hoàn toàn trái ngược với những gì chúng ta nghĩ. Và cuộc đời mà tác giả chuẩn bị kể ra đây sẽ chứng minh cho sự trái ngược ấy. Đồng thời chính điều đó đã phần nào nói lên, dự báo trước số phận cuộc đời của Mị không bằng phẳng đầy uất ức và bi kịch của cõi nhân sinh.
Mị một cô gái người dân tộc Mông xinh đẹp giỏi giang và hiếu thảo với cha mẹ nhưng dưới chế độ xã hội cũ cơ hội hạnh phúc và thực tế đau khổ sẽ diễn ra với cô như thế nào?
Trước khi làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái xinh đẹp tài năng “Trai đứng nhắn cả chân vách đầu buồng Mị”. những chàng trai cô gái Mông tài giỏi chỉ cần một chiếc lá rừng là có thể thổi thành sáo nghe rất vui tai và Mị cũng có tài ấy. không những thế Mị còn là một cô gái có lòng tự trọng có tình yêu và đã có người yêu, khi cha bị đe dọa rằng thống lý muốn lấy Mị làm con dâu để gánh nợ cho món nợ từ đời bố mẹ. Bố Mị sót con nhưng cũng xót nương ngô. Mị thì nói với bố rằng giờ Mị có thể cuốc bẫm trồng ngô nên xin cha đừng gả Mị cho nhà thống lý. Mị có người yêu rồi, cô yêu cuộc sống tự do và yêu đời không ham giàu sang phú quý. Thế nhưng những ngày tháng tươi đẹp ấy nhanh chóng kết thúc vì Mị phải về làm dâu nhà thống lý Pa Tra. Một cô gái xinh đẹp, tài năng hiếu thảo đến như vậy tưởng chừng sẽ có một cuộc sống hạnh phúc nhưng ai ngờ hiện thực lại trái ngược với những gì mà người ta hay đoán.
Trong một đêm tình mùa xuân Mị đã bị A Sử con trai của thống lý Pa Tra lừa gạt và bắt về nhà. Trong cái đêm định mệnh ấy Mị đang ngồi đợi người yêu của mình đến nhưng A Sử đã đến và giả vờ giống người yêu Mị, hắn thò ngón tay đeo nhẫn vào vách, Mị tưởng người yêu bước ra thì một toán người chụp lấy cô và đưa cô về nhà. Bắt đầu từ đấy cuộc sống của Mị sống trong những ngày tháng đau khổ nhất và cũng là bắt đầu của kiếp làm dâu gạt nợ. Bề ngoài Mị là con dâu nhà thống lý nhưng thực chất Mị chỉ là thứ để gán nợ mà thôi. Cuộc sống của Mị không bằng một con ở, nếu như con ở có thể được giải thoát khi đã trả hết nợ thì kiếp dâu gạt nợ của Mị sẽ không bao giờ được giải thoát.
Kiếp làm dâu gạt nở có thể nói là những ngày tháng đau khổ tủi nhục nhất cuộc đời Mị. cô bị tra tấn về thể xác lẫn tinh thần. Mị tê liệt lòng yêu đời yêu cuộc sống và tinh thần phản kháng. Trước đó, cô có tìm đến lá ngón để giải thoát cho mình nhưng nghĩ về cha và những lời cha nói, Mị lại đành phải ngậm ngùi vứt đám lá ngón trong tay quay trở về nhà thống lý. Vả lại trong xã hội ngày xưa khi người con gái cúng trình ma nhà chồng thì cả môt đời đến khi chết chi có thể ở nhà chồng mà thôi, đến khi nào rũ xương ở đó ngay cả khi chồng đã chết đi. Và từ lần ấy Mị không nghĩ đến chuyện chết nữa mặc dù cha đã qua đời. Ở lâu trong cái khổ Mị đã quen khổ rồi “Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. ” Thế nhưng con trâu con ngựa nhà thống lý còn sướng hơn cả Mị bởi vì chúng làm nhưng cũng có lúc chúng được đứng gãi chân nhai cỏ, còn Mị thì hết ngày này qua này qua ngày khác đều làm quần quật không biết ngày tháng là gì “ Mị tủi thân nghĩ mình không bằng con ngựa”. Mị trở thành một công cụ lao động đúng hơn là con dâu nhà thống lý, cuộc sống của mình quanh quẩn bằng những công việc được sắp trước những công việc đó lặp đi lặp lại thành một vòng luẩn quẩn mà Mị cứ quay mình trong đó không thể thoát ra được “lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cách tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày. ” Căn buồng Mị ở giống như một địa ngục trần gian tách biệt Mị với thế giới bên ngoài, Mị bị trà đạp về thể xác và tinh thần trói buộc bởi thần quyên và cường quyền “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, ở buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. ”. Có thể nói những ngày tháng ấy, Mị không được sống là chính mình, cô bị trói buộc và mất đi tinh thần phản kháng.
Thế nhưng khi những đem tình mùa xuân trên rẻo cao đến thì sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy mãnh liệt. điều đó khẳng định rằng cô gái trẻ Hơ Mông vẫn đã có sự phản kháng trước thực tại của mình. Đêm tình mùa xuân đã đến những yếu tố ngoại cảnh đã tác động đến Mị. Mùa xuân đến đất trời Hồng Ngài thay đổi đầy sức sống và xuân sắc. con người Hồng Ngài cũng rủ nhau đi chơi trên khắp các sân, trẻ con, người lớn đặc biệt là trai gái, họ rủ nhau chơi pao, chơi quay. Chính những yếu tố đã tác động đến tâm hồn Mị, Mị thấy tâm hồn phới phới trở lại. Có tiếng sáo gọi bạn tình làm cho Mị bổi hổi bồi hồi:
“Mày có con trai con gái
Mày đi nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu"
Mùa xuân trên Hồng Ngài như thế, mùa xuân trong nhà thống lý cũng rộn rã không kém, mọi người ăn bữa cơm cúng trình ma sau đó uống rượu bên bếp lửa. Mị thi lẩm nhẩm theo lời bài hát mà người đang thổi, rồi lén uống rượu, cô uống ực từng bát như đang cố uống từng chén cay chén đắng của số phạn mình. Tiếp đó Mị bước vào phòng xắn một ít mỡ cho đèn sang lên, hành động đó như thể hiện sự thắp sáng chính số phận của Mị, Mị đã bừng tỉnh. Mị thấy lòng mình phơi phới trở lại Mị còn trẻ và Mị muốn đi chơi. Mị quấn lại tóc và với chiếc váy hoa, nhưng hành động đó đã bị A Sử phát hiện và trói cô vào cột. Mị đứng yên trong bóng tối hơi rượu vẫn thoảng làm cho cô tưởng mình không bị trói, tỏng đầu tiếng sáo vẫn vẳng vẳng. Mị vùng bước đi nhưng không thể bước được, thằng A Sử cột cả tóc Mị lên khiến Mị không nghiêng cũng không cúi được. Mị quay lại với thực tại phũ phàng và Mị ước “ nếu lúc này có nắm là ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Dù bị vùi dập nhưng chúng ta đã thấy được phần nào sức sống tiềm tàng và sư phản kháng của Mị trở lại. điều đó dự báo cho một cuộc vùng dậy về sau.
Những đêm tình mùa xuân qua đi, Mị lại quay lại với cuộc sống như trước. lại kể lại chuyện A Sử đi chơi gây gổ và bị một người tên A phủ đánh thương. Nhà thống lý bắt được A Phủ và đánh đập anh tời bời, đánh xong lại hút thuộc phiện. sau đó chúng trói anh vào một cái cột. Mị dù bị trói chân tay dã dời nhưng khi chồng về cô vẫn phải gượng sức dậy đi lấy thuốc về cho chồng, thế nhưng ngay cả khi đau hắn cũng vãn tra tấn cô bằng những cái đạp vào mặt. Mị lạnh và hằng ngày cô thường hơ lưng vào buổi đêm cho đỡ lạnh. Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói ban đầu Mị dửng dưng vì cảnh tượng ấy diễn ra thường xuyên. Nhưng sau khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A phủ rơi lấp lánh rơi xuống hai hõm má đã sạm đen lại. Mị nhớ đến cảnh Mị bị trói đêm đó, nước mắt nước mũi rơi xuống mà không tài nào lau được. Mị thương mình rồi thương người, Mị quyết định cắt dây trói thả A phủ đi. Đó là một quyết định nguy hiểm nhưng trong đầu Mị bây giờ không còn nghĩ được gì nữa. Mị nghĩ mình đã cúng trình ma nhà nó thì sớm muộn gì mình cũng chết, còn người kia làm sai mà phải chết. Mị cắt dây cho A phủ và cùng anh chạy khỏi Hồng Ngài. Điều đó đó thể hiện tinh thần phản kháng và sức sống trong Mị. Cô vượt qua nỗi sợ hãi và vượt qua thán quyền hủ tục để cùng A phủ đi đến một vùng đất mới. từ đó cuộc đời tươi sáng theo cách mạng đã đến với Mị.
Như vậy có thể thấy Mị là một cô gái điển hình cho số phận những người phụ nữ Mông thời bầy giờ. Họ có tài năng có nhan sắc nhưng lại bị chính những thần quyền hủ tục và cường quyền bạo lực trà đạp về thể xác cũng như tinh thần. họ đã biết vùng dậy đi theo cách mạng để chông slaij những thế lực kia. Qua đây ta cũng thấy được những nét văn hóa của người Mông đó là thờ ma và có những phong tục đẹp như thổi sáo chơi quay.
Phân tích nhân vật Mỵ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài – Bài làm 4
Trẻ em Việt Nam không ai là không biết đến nhà văn Tô Hoài. Bởi tập truyện "Dế mèn phiêu lưu kí" đã nổi tiếng và gắn liền với tên tuổi của ông. Ông là một trong những nhà văn hiện thực sớm đi đến với cách mạng. Và một trong những tác phẩm xuất sắc của ông trong thời kỳ kháng chiến khốc liệt đó là " Vợ chồng A Phủ".
"Vợ chồng A Phủ" là kết quả của một chuyến đi tham gia chiến dịch Tây Bắc của tác giả, ra đời vào năm 1952 in trong tập "Truyện Tây Bắc". Một trong những thành công của Tô Hoài trong truyện ngắn này là xây dựng nhân vật Mị đại diện cho cuộc sống cơ cực, tủi nhục của người phụ nữ dưới ách thống trị của phong kiến và bọn chúa đất nơi miền núi.
Ngay từ những dòng đầu của truyện, nhà văn đã để Mị xuất hiện một cách u buồn. "Ai ở xa về có qua nhà thống lí Pá Tra", cũng thấy một người phụ nữ "ngồi bên tảng đá", "cạnh tàu ngựa", "mặt cúi buồn rười rượi". Tác giả đặt Mị đối lập với mọi thứ xung quanh và tập trung miêu tả ngoại hình của cô. Cô ngồi bên tảng đá trơ trọi chai lì, số phận khổ nhục như kiếp trâu ngựa đối lập với sự giàu có, tấp nập của nhà thống lí. Chỉ bằng vài câu văn, Tô Hoài đã gợi ra một số phận khổ đau nhẫn nhục, éo le trước mắt người đọc. Và từ sự xuất hiện ấy tác giả kể về cuộc đời cơ cực, khổ đau của cô.
Ở Mị trước hết là tài năng, lòng hiếu thảo và có lòng tự trọng. Trước khi về làm dâu cho nhà thống lí, Mị là cô gái trẻ đẹp, có tài thổi lá hay hơn thổi sáo. Trong những đêm tình mùa xuân "trai trong làng đứng nhẵn cả đầu buồng Mị". Không chỉ thế, cô còn là người con hiếu thảo, chăm chỉ và có lòng tự trọng. Nhà Mị nghèo, bố mẹ Mị có món nợ với nhà thống lí. Nhưng khi biết tin mình phải làm dâu nhà thống lí thì cô không hề mong muốn. Từ trước tới nay cô luôn làm nương để trả nợ cho cha mình. "Con nay đã lớn biết cuốc nương làm ngô, cha đừng bán con cho nhà giàu". Cô hiếu thảo, thương cha. Nhưng rồi cô cũng bị A Sử bắt về làm vợ. Chỉ vì món nợ truyền kiếp ấy mà Mị phải làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Mị vừa là con nợ, vừa là con dâu. "Mấy tháng đầu đêm nào Mị cũng khóc". Với nắm lá ngón trong tay, Mị về lạy cha để chết nhưng nợ chưa trả hết, Mị thương cha không thể chết được. Lòng hiếu thảo không cho phép Mị tự kết thúc cuộc đời mình. Cũng vì lòng hiếu thảo ấy mà Mị chấp nhận cuộc đời cơ cực của mình tại nhà thống lí Pá Tra.
Bị bắt về làm dâu gạt nợ, danh nghĩa là dâu nhưng thực chất Mị đã trở thành một nô lệ không công cho nhà thống lí. Mị bị bóc lột cả về thể xác lẫn tinh thần. Mị phải làm việc cả ngày lẫn đêm khổ hơn cả kiếp trâu ngựa " con trâu con ngựa đêm nó còn có lúc đứng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi đầu làm việc cả ngàu lẫn đêm". Căn buồng nơi Mị ở không khác gì một ngục tù "chỉ có một lỗ vuông bằng bàn tay trông ra lúc nào cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng". Chính hoàn cảnh này đã khiến cho Mị thay đổi. Người con gái tài hoa xinh đẹp ngày nào đã trở nên lầm lì, chai sạn về mặt cảm xúc. " Mỗi ngày Mị không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". "Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu con ngựa". "Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi". Cuộc sống tăm tối khổ cực đã khiến Mị bị tê liệt về tinh thần. Điều này được thể hiện rõ nhất trong mấy đêm đầu A Phủ bị trói đứng. Mị thấy A Phủ bị trói nhưng không một chút mảy may quan tâm. Đối với Mị chuyện người nhà thống lí bị trói đứng thế kia cũng chẳng có gì là lạ nên Mị vẫn thản nhiên ngồi sưởi lửa trong đêm giá lạnh ở vùng cao này. "A Phủ có là cái xác chết cũng thế thôi".
Mặc dù bị tê liệt tinh thần nhưng ở đâu đó trong tâm hồn Mị vẫn có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Điều đó thể hiện rõ nét trong diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Với cảnh sắc thiên nhiên rực rỡ, rộn rã của ngày Tết cùng tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha bổi hổi cùng men say của rượu đẫ khiến Mị dần dần thay đổi tâm trạng. Mị nhớ về kỉ niệm ngày xưa. Mị thấy " lòng đột nhiên phơi phới trở lại". Mị ý thức được "mình còn trẻ lắm". Tiếng sáo tha thiết mời gọi. Tất cả đã dẫn tới hành động Mị muốn đi chơi xuân. Men rượu nồng nàn đã thổi bùng lên ngọn lửa sức sống trong Mị. Dù bị chà đạp, nhưng sức sống của Mị vẫn như một đốm than nhen nhóm trong đống tro tàn chỉ chờ dịp bùng cháy. Mị không hề bị mất hết niềm ham sống của mình.
Không chỉ có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, Mị còn có một lòng đồng cảm với người cùng chung cảnh ngộ với mình. Niềm đồng cảm ấy ẩn kĩ trong tâm hồn Mị mà từ lâu nó đã bị chai sạn một phần. Nhưng không vì thế mà nó bị đánh mất. Niềm đồng cảm ấy phải được đánh thức. Và A Phủ chính là người đã đánh thức nó. Khi "hai hàng nước mắt bò trên hai gò má xám xịt" của A Phủ, Mị bắt đầu thức tỉnh. Mị nhớ lại cảnh mình bị trói rồi cô xót thương cho chính bản thân mình. Mị lại nhớ đến cảnh một người đàn bà hồi trước bị trói đến chết ở cái nhà này. Rồi Mị lại nhìn A Phủ. "Cơ chừng người này mai là chết, chết đau chết đói phải chết". Lúc này Mị nhận ra tội ác của cha con thống lí "chúng nó thật độc ác". Lòng đồng cảm với A Phủ ngày một tăng lên rồi nó lẫn át sự sợ hãi của Mị. Nó đã tạo ra một sức mạnh lớn để dẫn tới hành động, Mị cởi trói cứu A Phủ và chạy theo anh trốn thoát khỏi nhà thống lí. Chạy theo A Phủ là Mị chạy theo tiếng gọi của tự do, tiếng gọi của hạnh phúc. Khát khao tự do hạnh phúc đã đẩy bước chân Mị đi nhanh hơn để trốn thoát khỏi cái địa ngục nơi nhà thống lí. Chi tiết này đã thể hiện ngòi bút nhân đạo của tác giả.
Qua việc miêu tả số phận, Tô Hoài đã mang đến một cô Mị ngoan hiền hiếu thảo. Nổi bật trong con người cô là sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát vọng tự do hạnh phúc. Cô là nhân vật thể hiện rõ giá trị nhân đạo của tác phẩm. Đó chính là một trong những sức hút của "Vợ chồng A Phủ" đối với người đọc.
Phân tích nhân vật Mỵ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài – Bài làm 5
Con người sinh ra vốn đã được tạo hóa ban tặng cho quyền được sống, được làm người và quyền được mưu cầu hạnh phúc. Ý thức được điều đó, khao khát được hòa mình vào cuộc sống, con người đã vượt qua mọi trở ngại khó khăn, thử thách để hướng tới một điều thật ý nghĩa: sự sống. Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài cũng đã phần nào biểu hiện điều đó. Bằng sức sống mãnh liệt, lòng khát khao được sống, Mị đã can đảm và tìm thấy sự sống cho chính mình.
Mị là một cô gái xinh đẹp, chăm chỉ làm việc và có tài thổi sáo giỏi. Chính vì thế mà cô gái ấy là niềm khao khát, ước mơ của bao nhiêu chàng trai: “Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Có thể nói, cuộc sống của Mị đang trên đà đơm hoa kết trái, một cuộc sống mà ở tuổi của cô ai cũng phải ao ước. Thế nhưng bước ngoặt của cuộc đời Mị đã dần chuyển sang hướng khác khi cô trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Và người con gái đẹp ấy lại một lần nữa tỏ rõ tấm lòng hiếu thảo của một người con khi nghe lời cha, chấp nhận về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý.
Tiếng là con dâu nhà thống lý nhưng ai cũng thấy được cô con dâu chẳng khác gì kẻ tôi đòi, phải làm việc quần quật suốt ngày đêm. Hình ảnh Mị thật tội nghiệp như một “con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”, như “con trâu con ngựa nuôi trong chuồng, chỉ biết ăn cỏ, chỉ biết làm việc mà thôi”. Đối lập hoàn toàn với cha con nhà thống lý ăn chơi trác táng là hình ảnh cô Mị ngồi cạnh tàu ngựa, trước tảng đá, dù chẻ củi hay gánh nước từ dưới suối lên, lúc nào cũng cúi mặt buồn rười rượi. Sống trong nhà thống lý Pá Tra không phải là cô Mị trẻ trung, yêu đời như ngày xưa nữa. Chính thần quyền và cường quyền nhà thống lý đã giết chết tuổi thanh xuân, bóp nghẹt cuộc sống của Mị cả về thể xác lẫn tâm hồn. Lúc này, Mị không khác gì một cái xác không hồn vật vờ, làm việc như nữ nô, thành một kẻ hầu người hạ cho chồng mà có thể bị chồng đánh đập tùy hứng bất cứ lúc nào. Cuộc sống của Mị khép chặt trong căn buồng kín bưng, trông ra ngoài chỉ duy nhất có “một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.
Ý thức về cuộc sống của Mị dường như đã bị giai cấp phong kiến làm tê liệt. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Điều này đã cho thấy con người nô lệ trong Mị vẫn còn sống, con con người thực của cô thì dường như đã chết. Mị không bày tỏ, không kêu than cũng không phản kháng gì, chỉ lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa và “chờ ngày chết rũ xương ở đây thôi”.
Thế nhưng, “ngoài đầu núi lấp ló, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi”. Ta tưởng chừng như cô Mị đã trở nên vô cảm vô hồn, chỉ biết chấp nhận kiếp sống đọa đày nhưng không phải. Chính tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân – biểu tượng của tình yêu và khát vọng sống – đã gợi dậy những sâu thẳm trong lòng Mị bấy lâu. “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát”. Cách uống rượu ấy như báo trước một cuộc nổi loạn mà chính bản thân Mị cũng chưa ý thức rõ: “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, còn Mị thì đang sống về ngày trước”. Chính những ngày tháng tuổi trẻ nghèo khó nhưng tự do, vui vẻ và hạnh phúc đã khiến cho lòng ham sống của Mị trỗi dậy: “Mị thấy phơi phơi trở lại”. “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo” và “Mị muốn đi chơi”. Từ chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã có một hành động thật ý nghĩa” “Mị đến góc nhà, lấy ống mở, xắn một miếng bỏ vào đền cho thêm sáng” và “với tay lấy cái váy hoa vắt ở vách” để chuẩn bị đi chơi. Hành động này có nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ, và giờ đây Mị muốn bức ra khỏi cuộc sống tối tăm ấy, đến với tiếng sáo và những âm thanh rộn rã ngoài kia để được sống là chính mình.
Vậy mà nghiệt ngã thay, khi Mị toan bước đi thì bị A Sử kéo lại, chẳng nói chẳng rằng liền trói Mị vào cột nhà. Và bây giờ Mị khóc, khóc cho cái oan trái của một kiếp người khao khát muốn sống, muốn yêu mà lại bị ghì chặt vào một cuộc sống “không bằng con ngựa”. Men rượu làm cho Mị say, Mị mơ màng giữa ý thức và thực tại cho nên cô định “vùng bước đi. Nhưng chân tay đau không cựa được. Mị không còn nghe thấy tiếng sao nữa”. Chính thực tại đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết cực ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát thì nhân vật khong thể tự giải thoát cho mình, đồng thời nó cũng bắt đầu khơi dậy cho những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.
Ngọn lửa kháo khát sống trong cô Mị thực sự bùng cháy khi tự tay cô cởi trói cho A Phủ. Chứng kiến cảnh A Phủ bị đánh đập dã man, và hình ảnh “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã khiến cho Mị chợt nhớ lại cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cái cột thế kia, cũng nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ mà không cách nào lau đi được. Chính từ đó đã làm trỗi dậy trong Mị tình thương những người cùng cảnh ngộ. Mị đã thấy được cái bất công phi lý, sự tàn ác của cha cn nhà thống lý và không muốn thấy thêm một cái chết oan ức, cho nên cô đã cởi trói cho A Phủ. Rõ ràng Mị đã suy nghĩ kỹ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô đã sẵn sàng chịu trói và chịu chết thay cho A Phủ vì cô nghĩ rằng, chỉ có chết thì cô mới có thể được giải thoát khỏi kiếp sống tù đày, đớn đau nhục nhã này. Nhưng không phải. Khi thấy a Phủ chayjd di rồi, chạy đến một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tỉnh hẳn. Mị không muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống cho nên “Mị vụt chạy ra” theo A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình.
Qua việc khắc họa nhân vật Mị, Tô Hoài cũng đã phần nào tố cáo chế độ thống trị của bọn chúa đất, địa chủ phong kiến, ca ngợi phẩm chất cao đẹp của những người nông dân miền núi hiền lành, chất phác. Họ biết yêu cái đẹp, trọng lẽ phải để rồi vượt lên tìm lại chính mình.
Sức sống của nhân vật Mị được Tô Hoài khắc họa hết sức tài tình, độc đáo. Từ một con người dường như đã bị mất hết sức sống, nhưng với một nghị lực phi thường, một lòng ham sống mãnh liệt, Mị đã tìm thấy cuộc sống cho bản thân mình và dám đấu tranh với những thử thách để rồi vượt qua. Thật vậy, Nguyễn Khải cũng đã từng triết lý: “Ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để vượt qua những ranh giới ấy”. Con đường vượt qua những ranh giới của nhân vật Mị phần nào đã chứng minh cho chân lý ấy.
Phân tích nhân vật Mỵ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài – Bài làm 6
Đọc “ Tắt đèn” của Ngô Tất Tố ta không thể quên được hoàn cảnh cuộc đời của chị Dậu- cuộc đời của kẻ khốn khó cùng quẫn trong những ngày tháng sưu cao thuế nặng. Để có tiền nộp sưu cho chồng( thuế thân) và người em chồng đã mất. Chị Dậu đã phải bán con, chị Dậu tưởng khổ đến thế là cùng, nhưng người phụ nữ bất hạnh ấy còn có một gia đình đầy yêu thương… cho đến khi đọc truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài ta mới nhận thấy rõ hơn, sâu sắc hơn nỗi khổ của người miền núi nói chung và điển hình là nhân vật Mị. Một cô gái xinh đẹp hiếu thảo nhưng lại là nạn nhân của chế độ phong kiến bất cong tàn ác. Xã hội ấy đã biến Mị trở thành một con người câm nặng, vô cảm, lầm lũi, nhưng cuối cùng con người ấy không chịu số phận tự vùng lên cứu người và giải thoát chính bản thân mình.
Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô giá Mèo xinh đẹp, thổi sáo hay và có nhiều chàng trai mê, cô chăm chỉ hiếu thảo với cha già, trong cô luôn luôn khát vọng về một cuộc sống tự do. Nhưng món nợ truyền kiếp do bố mẹ Mị lấy nhau không có tiền vay thống lí Pá Tra năm nào cũng phải trả lãi một nương ngô, đó là sợi dây oan nghiệt đối với Mị. Hạnh phúc không đến với Mị thời con gái, Mị đã bị A sử con trai thống lí Pá Tra bắt cóc đem về cúng trình ma Mị trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Mị làm dâu nhưng thực chất là nô lệ, vùi dập, chà đạp tước đi mọi quyền sống của con người, từ đây Mị sống kiếp sống của con vật. Ở đoạn đầu của tác phẩm hình ảnh Mị “ một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy dù quay sợ, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên cô ả cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách miêu tả này của Tô Hoài đã cho người đọc thấy được các trơ lì, vô cảm của Mị giống như kiếp con ngựa. Hình ảnh ấy đối lập hoàn toàn với nhà thống lí quyền thế giàu có “có nhiều nương nhiều ruộng nhiều thuốc phiện nhất làng”. Trong công việc Mị lúc nào cũng cúi mặt xuống Mị nghĩ “ mình không bằng con trâu con ngựa”. Căn buồn Mị ở như chuồng nhốt thú kín mít qua ô cửa sổ bằng bàn tay mình nhận ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng. Nó thể hiện sự tù túng âm u lạnh lẽo giống như địa ngục trần gian hãm thể xác và tâm hồn của Mị. Mị không chỉ bị tước đoạt về sức lao động mà còn bị áp chế về cả tinh thần “ nó đã bắt mình về trình mà nhà nó rồi thì chỉ còn đợi chết ở đây thôi”. Lúc mới làm dâu nhà thống lí Pá Tra đêm nào Mị cũng khóc, tủi cực Mị tìm đến cái chết. Mị toan ăn lá ngón tự tử. Nhưng Mị thương cha già “mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì ai làm nương ngô ngô giả được nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Không được con ơi!” Mị ném nắm là ngón xuống đất. Mị quay trở lại với kiếp sông trâu ngựa “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Những chi tiết gây ám ảnh ngột ngạt bức bối về một nhà tù rùng rợn về số phận, kiếp người, cuộc đời bị áp bức nơi địa ngục trần gian. Nhà văn đã cất lên tiếng nói đòi nhân quyền của con người. Tố cáo tội ác của xã hội phong kiến miền núi tàn ác vô nhân đạo đã làm tàn lụi niềm vui sống của con người. Nhưng điều đau xót nhất với Mị là phải sống với người chồng mà mình không thương yêu lại còn bị đánh đập hành hạ. Những đêm tình mùa xuân lại trở về trên núi cao, tiếng sáo tiếng khèn gọi bạn tình Mị muốn đi và nhẩm theo lời bài hát, Mị uống rượu. Nhưng khát vọng của Mị chưa được thực hiện thì bị A sử chặn đứng lại dùng một thúng sợi đay A sử trói đứng Mị suốt đêm trong căn buồng u tối. Dây trói xiết chặt làm cho da thịt Mị đau nhức như bị đứt ra từng mảng, đau đớn xót xa Mị nghĩ “ kiếp mình không kiếp ngựa”.
Sau khi A Phủ đánh A sử bị thương, Mị được cởi trói để đi lấy lá thuốc cho chồng “Mị cũng thức suốt đêm im lặng ngồi xoa thuốc dấu cho chồng. Lúc nào Mị mỏi quá, cựa mình, thì những chỗ lằn trói trong người lại đau ê ẩm. Mị lại gục đầu nằm thiếp đi. Khi đó, A sử bèn đạp chân vào mặt Mị. Mị choàng thức, lại nhặt nắm là thuốc xoa đều trên lưng chồng”. Những đêm đông trên núi cao dài và buồn nếu như không có bếp lửa làm bạn thì Mị sẽ chết tàn chết héo, mỗi đêm Mị trở dậy hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần. Có đêm A sử chợt về thấy Mị ngồi đấy hắn liền đánh Mị ngã ngay xuống bếp lửa. Hành động của Asử cho thấy hắn là một kẻ vũ phu, những quan niệm lạc hậu của xã hội phong kiến miền núi vẫn còn tồn tại.
Ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài đã không để cho Mị sống mãi kiếp ngựa trâu mà còn phát hiện ở Mị cái khả năng thay đổi cuộc đời. Khả năng ấy bắt nguồn từ quy luật “ có áp bức có đấu tranh”. Đó là việc Mị cởi trói cứu A Phủ Với Mị là vậy còn với A Phủ những hành động ấy còn tàn ác dã man hơn. Trước hết điều đó được thể hiện ở màn xử kiện phạt vạ. Mở màn là hình ảnh đầy ám ảnh A Phủ bị trói, bị đánh đập một cách tàn nhẫn “ người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kẻ chửi, lại hút”. Tất cả cứ như một vòng tuần hoàn “ cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Hành động tàn ác ấy đã khiến “ mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giâp chảy máu”. Tất cả đâu chỉ có vậy, sự tàn ác còn được thể hiện khi A Phủ làm mất con bò để hổ ăn thịt, A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra trói đứng vào cột ở giữa núi rừng mùa đông Hồng Ngài. Sương muối giá buốt lại bị bỏ đói. Chỉ là mất con bò thôi mà bọn chúng đã coi mạng sống của con người như một con động vật rẻ mạt, không có giá trị.
Nếu như trong cùng một giai đoạn văn học này, trong tác phẩm”Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, chị Dậu phải chịu sự ràng buộc của sưu cao thuế nặng, thì trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” này cả hai nhân vật đều chịu sự chi phối ràng buộc của thần quyền. Đó chính là phương thức hữu hiệu để giai cấp thống trị nô dịch người dân nghèo. Mị bị bắt về làm dâu với thân phận đàn bà, lại đã cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra, Mị không còn cách nào khác chỉ biết sống tiếp “nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” và từ đấy Mị sống trong danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất là thân phận nô lệ.
Chính nỗi đau bất hạnh của Mị và A Phủ cùng với sự tàn nhẫn độc ác của cha con thống lí Pá Tra đã làm thức dậy tinh thần phản kháng của người đàn bà yếu đuối. Tình thương tiềm ẩn trong Mị không chết, cũng như sức sống của Mị không thể bị tê liệt hoàn toàn. Trong đêm đông rẻo cao ấy sức sống của Mị đã hồi sinh khi Mị bắt gặp dòng nước mắt của A Phủ “ một ngọn lửa sưởi vừa bùng lên Mị né mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước lấp lánh đang bò xuống hai hõm má xám đen lại”. Giọt nước mắt của người đàn ông tràn đầy sức sống giàu can đảm nhưng ở đây đang ở thết tuyệt vọng và oan ứ đã có tác động sâu sắc tới Mị. Giọt nước mắt ấy đã khiến Mị từ cõi quên đến cõi nhớ. Nhớ lại A sử đã trói Mị không quên cảm giác uất hận đau đớn và từ đây trái tim Mị không cô đơn nữa. Mị đã thấy được kẻ thù “ chúng nó thật độc ác” quá phẫn lộ “ cơ chừng này chỉ đêm mai người kia sẽ chết,chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Cách ngắt nhịp ngắn và điệp từ “ chết” đã diễn tả những căm phẫn và xót thương đang ào ạt dâng lên trong lòng Mị. Bởi hơn ai hết Mị hiểu thế nào là chết đau, chết đói, chết rét, trên cơ thể kia. Trỗi dậy trong lòng Mị lúc này là tinh thần phản kháng mạnh mẽ, tình thương đã đem lại chó Mị sức mạnh khiến Mị từ người phụ nữ vô cảm, cam chịu nô lệ trở thành người phụ nữ can đảm mạnh mẽ. Mị toan định cởi trói cho A Phủ, nhưng Mị nghĩ đến biết đâu A Phủ chạy trốn được Mị bị trói thay vào đó và chết ở đó thì sao? Nhưng dù nghĩ như vậy nhưng Mị cũng không thấy sợ bởi lòng can đảm và sức mạnh trong Mị đã trở lại. Nó đã dẫn đến hành động táo bạo rút dao cắt đứt dây trói. Đây là hành động bất ngờ đến với cô nhưng lại là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong Mị. Mị đã chạy băng trong đêm tối theo người đàn ông xa lạ với khát vọng một tương lai tươi sáng hơn. Hành động quyết liệt và mạnh mẽ của Mị trong đêm ấy không chỉ giải phóng cho A Phủ mà còn giải phóng cho chính bản thân mình. Cùng lúc đó Mị đã phải vượt lên hai sức mạnh của cường quyền và thần quyền để có sức mạnh tự do đi theo con đường cách mạng. Điều đó chứng tỏ rằng giai cấp thống trị có thể đày đọa người lao động nhưng không thể dập tắt được khát vọng sống và khát vọng tự do của họ.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật rất độc đáo, các kể chuyện đi từ hiện tại đến quá khứ rồi lại đến hiện tại, cách kể chuyện như vậy để cho thấy được số phận cực khổ luôn sống trong đày đọa. Hơn thế chuyện còn sử dụng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật một cách sâu sắc đặc biệt trong đêm tình mùa xuân và trong đêm cứu A Phủ. Tô Hoài đã thành công khi sử dụng hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ để coi đó là động lực cho Mị vùng dậy đấu tranh. Từ đó đến bước ngoặt cuộc đời của hai nhân vật
Viết về cuộc đời và số phận của nhân vật Mị, nhà văn nhân danh quyền con người để nên án, tố cáo tội ác của bọn thực dân và phong kiến đã áp bức đọa đày tước đoạt quyền sống, quyền làm người của họ. Nhà văn không chỉ thương cảm sâu sắc với nỗi đau khổ con người mà còn đồng tình với khát vọng giải phóng, đồng thời còn mở ra cho họ con đường tươi sáng. Từ đó thấy được chiều sâu nhân đạo của nhà văn.
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Phân tích tác phẩm Chữ Người Tử Tù của Nguyễn Tuân
Đề bài: Em hãy phân tích tác phẩm “Chữ Người Tử Tù” của Nguyễn Tuân [...]
Th12
Phân tích tác phẩm Người Lái Đò Sông Đà của Nguyễn Tuân
Đề bài: Em hãy phân tích tác phẩm “Người Lái Đò Sông Đà” Bài làm [...]
Th12
Phân tích tác phẩm Hạnh Phúc Của Một Tang Gia
Đề bài: Em hãy phân tích tác phẩm “Hạnh Phúc Của Một Tang Gia” của [...]
Th12
Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt
Đề bài: Em hãy phân tích tác phẩm “Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt” của [...]
Th12
Phân tích tác phẩm Những Đứa Con Trong Gia Đình
Đề bài: Em hãy phân tích tác phẩm “Những Đứa Con Trong Gia Đình” Bài [...]
Th12
Phân tích tác phẩm Chiếc Thuyền Ngoài Xa của Nguyễn Minh Châu
Đề bài: Em hãy phân tích tác phẩm “Chiếc Thuyền Ngoài Xa” của Nguyễn Minh [...]
Th12